Ở Hòa Bình không có những lễ hội quy mô, đồ sộ có sự tham gia của đông người với những trang phục, lễ vật, đồ tế khí, cùng những quy định bài bản như các lễ hội của người kinh dưới miền xuôi, không có những hội chơi núi mùa xuân hay chợ tình lãng mạng mà tha thiết của người Mông ở vùng tây bắc… Tuy vậy, cộng đồng các dân tộc sống trên đất Hòa Bình, đặc biệt là người Mường, cũng có những lễ hội riêng mang đậm nét văn hóa. Phải chăng do mật độ cư dân của các dân tộc Mường, Dao, Thái ở đây thường tập trung thành các khi riêng, có vẻ khép kín mà có lễ hội của họ thường không có quy mô lớn, không nổi trội, vượt xa khỏi khu vực họ sống. Ngay cả người Mường cũng được chia ra thành bốn Mường chính, có những sự tự trị nhất định ở mỗi nơi, làm cho nó phần nào hơi bị khép kín.

Lễ hội khai hạ

Thường vào mùa xuân, ở các vùng Mường trong tỉnh Hòa Bình bắt đầu tổ chức lễ hội, không chỉ để vui chơi mà còn là dịp để bà con thỉnh cầu ước nguyện với trời đất, thần thánh, tổ tiên cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt. Qua các lễ hội người ta gửi gắm hy vọng vào một mùa bội thu, một năm mới ấm no, hạnh phúc, bình yên cho cả bản mường. 

Nét đặc trưng ở các lễ hội dân gian của người dân tộc Mường thường thể hiện sự kết nối của cộng đồng, tinh thần đoàn kết, gắn bó của một bản Mường, một vùng Mường. 

Trong lễ hội, phần lễ thường được tổ chức rất trang trọng và linh thiêng. Theo quan niệm của người Mường, họ thường thờ cúng những vị thần, thánh, có thể là thần Đất, thần Nước, tổ tiên hoặc người có công lao dựng làng, dựng mường… 

Là sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh sâu sắc, các nghi lễ thể hiện sự sống hòa mình cùng thiên nhiên, tôn trọng thiên nhiên của một cộng đồng Mường. Cả người Mường, Kinh, Thái, Dao, Mông ở Hòa Bình đều không có một lễ hội nào có quy mô to lớn. Song, những lễ hội của họ như lễ khuống mùa (xuống đồng), sắc bùa, chá chiêng, đu tre… không kém phần đặc sắc và bao hàm nhiều ý nghĩa nhân văn.

Lễ hội của các dân tộc ở Hòa Bình gắn liền với những đặc điểm cụ thể về địa lý, tự nhiên và đời sống xã hội của các cộng đồng dân cư tồn tại ở đây từ lâu đời. Những cộng đồng người Mường có những mối quan hệ hết sức gần gũi với người Việt và đã từng có một nền văn hóa khá phong phú mà nhiều sắc thái còn giữ được cho đến ngày nay. Nền văn hóa đó đã góp phần lớn vào nền văn hóa Hòa Bình, đã trở thành một hiện tượng văn hóa được thế giới công nhận. Dưới đây là một số lễ hội tiêu biểu ở Hòa Bình: 

Lễ hội xuống đồng (khuống mùa) của người Mường

Lễ hội xuống đồng

đây là một lễ hội rất phổ biến của người Mường xưa, giống như lễ hội lồng tồng của người Tày – Nùng vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang… mục đích của lễ hội là để cầu cho mùa màng của một năm mới thịnh vượng, may mắn. đồng thời, việc thực hành những nghi lễ cầu mùa cũng là dịp để người Mường nghỉ ngơi, vui chơi giải trí và bày tỏ những ước vọng của mình về một cuộc sống tươi đẹp và yên bình. Lễ hội này thường diễn ra vào dịp đầu xuân, như vùng Mường Bi, xóm Lũy huyện Tân Lạc, vùng mường Chiềng, Mường Tôm, xã Tân Lập, huyện Lạc Sơn….

Lễ hội sắc bùa của người Mường

Lễ hội này có nghĩa là xách cồng, là một hội vui có tính chất giải trí diễn ra vào dịp đầu năm mới ở những bản Mường để người ta cầu chúc nhau may mắn, mạnh khỏe. ngoài ra những dịp vui khác người ta cũng sắc bùa như đón khách quý từ xa đến, dựng nhà mới, đón dâu hoặc những dịp vui khác.

Lễ hội cầu mùa của người Mường

Lễ hội cầu mùa tiêu biểu diễn ra ở vùng Mường Vang, Lạc Sơn, là lễ hội của mùa của 7 xã vùng Cộng Hòa tham gia. Lễ hội bắt nguồn từ việc trước đây khi thấy xuất hiện sâu bọ cắn phá mùa màng, các quan lang trong mường nhóm họp bàn việc tổ chức cúng. Có năm sâu bọ nhiều, sau khi làm lễ cúng, tự nhiên có đàn chim sà xuống cánh đồng bắt hết sâu bọ, làm cho lúa sạch sâu mà lại tốt tươi, từ đó người ta tin tưởng vào lễ hội cầu mùa cho nên hàng năm thường tổ chức lễ này.

Lễ hội đền Bờ

Lễ hội đền Bờ

Đây là lễ hội có sự tham gia nhiều nhất và lớn nhất của người Kinh trên đất Hòa Bình, lễ hội là biểu tượng đoàn kết của ba dân tộc Kinh – Mường – Dao sống trên dải đất Hòa Bình. Đền Bờ hay đền thác Bờ là một di tịch lịch sử nổi tiếng, ở đây không những có đền mà còn có cả một cái chợ Bờ đã từng là tên của tỉnh lỵ. Tương truyền năm 1431- 1432, vua Lê Lợi đi dẹp giặc ở Mường lễ (Sơn La) qua đoạn thác Bờ hiểm trở đã được dân địa phương giúp đỡ rất tận tình. Trong số đó có bà Đinh Thị Vân người Mường và một bà người Dao giúp đỡ nhà vua về quân lương, thuyền bè vượt thác…. khi hai bà mất, vua Lê Lợi đã truy phong công trạng của hai bà và ban chiếu cho lập đền thờ. Từ đó người dân ở đây thường mở hội hàng năm vào ngày mồng 7 tháng giêng để tưởng niệm hai bà và các vị thần. Hiện nay, di tích và lễ hội này thu hút rất đông khách thập phương từ dưới xuôi lên, lễ hội trở thành kéo dài suốt cả tháng, đến đây du khách vừa có thể thưởng ngoạn cảnh đẹp vừa là nơi sinh hoạt tâm linh hấp dẫn.

Người xưa kể lại: “Xưa kia, ở xứ Mường cổ, hình thái tổ chức xã hội đặc thù là chế độ Lang đạo, các dòng họ Lang đạo như: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng… chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi Mường có các Lang cun, dưới Lang cun có các Lang xóm hoặc Đạo xóm, cai quản một xóm. Trong áng mo “Đẻ đất, đẻ nước” của người Mường cũng có đoạn kể: Một hôm Lang Đá Cần, vị Lang đầu tiên cai quản đất Mường đi bẫy và bắt được một con rùa. Con rùa van nài Lang đừng giết thịt, bù lại rùa mách bảo cho cách làm nhà sàn. Rùa dạy: “Bốn chân tôi là bốn cột cái/Hai mai tôi là hai mái nhà/Xương sống tôi là đòn nóc/Chặt cây lim làm cột/Lạt buộc bằng cây giang/Cỏ gianh dùng để lợp”. Câu chuyện này được coi như một điển tích về sự ra đời nhà sàn của người Mường. Nó gắn liền với những phong tục tập quán, sinh hoạt thường ngày của người dân bản. Và cho tới ngày nay, những nếp nhà sàn đó vẫn còn vẹn nguyên với người dân nơi đây. 

Hình ảnh con rùa cho đến nay không chỉ là con vật linh thiêng được người Mường tôn thờ mà còn sáng tạo ra một cách tính ngày tốt, giờ tốt gọi là phương pháp “trừ đá Rò” (Rò ở đây được hiểu là Rùa). Phương pháp này dùng để tiến hành dựng nhà hay cưới hỏi và làm những việc quan trọng khác của làng và dân bản.

Comments are closed

Call Now Button